Nhân khẩu Suriname

Bài chi tiết: Nhân khẩu Suriname
Tôn giáo tại Suriname (2012)[6]
Tôn giáoTỷ lệ
Cơ đốc giáo
  
48.4%
Hindu
  
22.3%
Hồi giáo
  
13.9%
Khác
  
4.7%
Không tôn giáo
  
7.5%
Không cho biết
  
3.2%

Dân số Surimane hiện khoảng 470,784 người. Gồm các nhóm dân tộc: Hindustani (còn được gọi là "người Đông Ấn" tổ tiên của họ di cư từ Bắc Ấn Độ vào cuối thế kỷ XIX) chiếm 37% dân số, người Creole chiếm 31%, người Java 15%, người Maroon 10%, người Hoa 2%, người Da Trắng 1%, người bản xứ 2%. Ngôn ngữ chính thức của quốc gia là tiếng Hà Lan, ngoài ra còn có tiếng Anh, tiếng Hindustani (thổ ngữ của tiếng Hindi), tiếng Java.

Tôn giáo chiếm ưu thế trong nước là Kitô giáo chiếm 40,7% dân số gồm Công giáo La Mã và các giáo phái khác nhau của đạo Tin Lành, Giáo hội Moravian là lâu đời nhất và lớn nhất.

Ấn giáo chủ yếu tập trung ở vùng ven biển phía Bắc của Suriname. Nhất người Ấn giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ. Theo điều tra dân số năm 2004, 23,9% dân số Surinam thực hành Ấn Độ giáo. Ấn giáo chủ yếu tập trung ở Nickerie, WanicaSaramacca. Đây là những nơi Ấn giáo là nhóm tôn giáo lớn nhất.

Theo điều tra dân số gần đây nhất, Hồi giáo ở Suriname chiếm khoảng 13,5% tổng dân số của đất nước, đem lại cho đất nước này tỷ lệ phần trăm người Hồi giáo cao nhất trên lục địa châu Mỹ.

Người Hồi giáo đầu tiên đến Suriname là những nô lệ đến từ châu Phi. Nhóm tiếp theo của người Hồi giáo đến đất nước này bao gồm người lao động giao kèo từ Nam ÁIndonesia, mà hầu hết người Hồi giáo ngày nay ở Suriname là hậu duệ.[7]